4 tháng 7, 2015

TRIẾT HỌC PLATON


Bài 1: Trong hang động của Platon




Tôi đã thấy việc tranh luận về hội họa trừu tượng của chúng ta sẽ không đi tới đâu, vì chúng ta đều bàn ở ngọn mà chưa đào xới vấn đề từ gốc. Có rất nhiều hình dung khác nhau về khái niệm “trừu tượng” cũng như hội họa trừu tượng, vì thế nếu không có sự thống nhất cơ bản, chúng ta sẽ tranh luận về những thứ rất khác nhau. Nhân đây, tôi cũng muốn khởi xướng một tranh luận kỹ hơn về lịch sử mỹ thuật. Cũng xin nói, tôi không phải chuyên gia về mỹ thuật cũng như lịch sử mỹ thuật, vì thế, những thứ tôi nói chỉ là hiểu biết thiển cận của người ngoại ngạch, rất có thể sai, và chắc chắn là phiến diện và non nớt. Tuy vậy, hy vọng nó sẽ đặt viên gạch đầu tiên cho sự đóng góp của mọi người vào một hiểu biết sâu sắc hơn.

Đầu tiên, xin khẳng định là mọi khái niệm, quan điểm quan trọng trong nghệ thuật, mọi trường phái lớn, đều có căn nguyên rất sâu rộng trong cả hệ thống nhận thức, triết lý, lịch sử, văn hóa. Chúng không phải những món đồ bày bán ở siêu thị mà ta có thể dễ dàng chọn lựa theo sở thích. Để hiểu được nó, nhất thiết phải hình dung được bối cảnh tổng thể. Trong đó, gần nhất là những triết lý quan trọng về mỹ học và khái niệm nghệ thuật. Riêng lịch sử phương Tây có ít nhất khoảng 15 hệ thống quan trọng, còn ảnh hưởng sâu rộng tới ngày nay. Nếu không hiểu được sơ bộ những hệ thống này thì mọi tranh cãi đều hết sức vô căn cứ. Vì thế tôi muốn đề xuất một chuỗi diễn đàn, tranh luận về từng hệ thống một. Qua đó, chúng ta sẽ thấy nhiều điều, và chí ít cũng thấy được khái niệm abstract đã thay đổi rất nhiều lần như thế nào.

Nhân vật đầu tiên xin được điểm qua là Platon.


PLATON (427-347 TCN)

Chúng ta đều thống nhất là nền tảng văn minh phương Tây nói chung và nghệ thuật phương Tây nói riêng có liên quan rất chặt chẽ tới Hy Lạp cổ đại. Trong hệ thống Hy lạp, ba thầy trò Socrates, Platon và Aristote đóng vai trò đặc biệt. Socrates không viết. Những điều ta biết về ông đều qua lời Platon. Vì thế, Platon đặc biệt quan trọng. Trong các lý thuyết về mỹ học và nghệ thuật, có thể nói Platon là khởi điểm đáng kể nhất.

1. Dụ ngôn Hang động và vũ trụ quan Platon

Triết học Platon có rất nhiều vấn đề, nhưng một trong những quan điểm liên quan mật thiết đến lý luận mỹ thuật là vũ trụ quan của ông, được thể hiện rõ trong dụ ngôn Hang động mà có lẽ ai cũng biết, nhưng xin nêu lại ý chính:


Hình dung loài người là một bầy tù nhân bị trói chặt trong một hang động, quay mặt vào vách đá ở đáy động. Vì bị trói chặt, đám người không thể ngoái nhìn ra cửa hang, cũng không thể đi ra ngoài hang. (Hệ thống dây trói này là gì, sau này có nhiều kiến giải. Nhưng chí ít chúng là những hạn chế của thể xác với hệ thống giác quan của nó. Ngoài ra còn những trói buộc về tư tưởng, phong tục tập quán v.v.)

Bên ngoài cửa hang là cả một thế giới. Thế giới này được Platon cho là chân, thiện, mỹ. Trong thế giới đó có vô số thứ hay ho, được Platon gọi là các Ideas, ta dịch là các ý tưởng. Theo Platon thì tất cả các Ideas đều tuyệt đẹp và vĩnh cửu, bất biến.

Thế giới bên trong và bên ngoài hang

Các vị thần là những sinh linh hay siêu nhân có thể ra ngoài thế giới tự do đó, và biết tất cả những ideas đó. Thương loài người bị cầm tù, các thần làm một số bản copy của một số ý tưởng đó để mang vào hang cho loài người xem. Những bản copy này có thể được coi như những con rối, hay búp bê, làm theo hình mẫu ngoài thế giới vĩnh hằng. Những con rối này được làm bằng các loại vật liệu nào đó, vì thế, chúng có tính vật chất, tính “thực” của chúng, nhưng đó là cái thực của con rối, khác với cái thực của hình mẫu lý tưởng. Từ một ý tưởng mẫu có thể làm ra muôn vàn con rối khác nhau, bằng những vật liệu khác nhau.

Tuy nhiên, do trong hang tối om, và quá nhiều người tù bị trói, nên muốn cho mọi người cùng xem các con rối, các thần làm một hệ thống chiếu phim, giống như hệ thống xem rối bóng hay projector của ta bây giờ. Họ làm một bức tường đằng sau các người bị cầm tù, đặt các con rối lên đó, rồi đốt một đống lửa đằng sau, để cho bóng của các con rối được hắt lên tường. Đống lửa này có thể coi như mặt trời mà ta biết. Nhờ ánh sáng của nó mà ta thấy được bóng của các con rối.


Theo cách hiểu phổ thông thì các con rối chính là những vật, những objects trong thế giới mà ta gọi là tự nhiên khách quan. Ta có thể đoán biết về sự tồn tại của chúng, nhưng vì chúng nằm ngược sáng nên ta không thể nhìn rõ chúng. Còn những thứ mà ta thấy chỉ là cái bóngcủa chúng mà thôi. Ví dụ như con ngựa ngoài tự nhiên chính là con búp bê ngựa mà các thần làm ra từ ý tưởng, hình mẫu là con ngựa vĩnh cửu. Nhưng cái mà ta cảm nhận được về con ngựa chỉ là cái ảnh của con rối ngựa đó khi được ánh sáng chiếu vào, và cái ảnh này chỉ là một phần của con ngựa ngoài tự nhiên. Và điều quan trọng nữa là bản thân những ảnh này rất khác nhau trong cảm nhận của mỗi người, phụ thuộc vào điều kiện chủ quan của từng người. Có thể nói mỗi con ngựa chúng ta nhìn thấy là tổng hợp của 3 yếu tố: nguồn sáng, bản thân con ngựa ngoài tự nhiên và hệ thống giác quan, cảm nhận chủ quan của mỗi người.



Tới đây, ta có thể tóm tắt một hệ vũ trụ 3 bậc:
- Thế giới vĩnh hằng với các ideas chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên
- Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, objects được các thần copy từ các idea 
- Thế giới của các cái bóng của những con rối, là hình ảnh về những sự vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người


Bài 2: Khái niệm “đẹp” của Platon 

Ở phần 1, vũ trụ quan Platon có 3 bậc:
- Thế giới vĩnh hằng với các ideas chân thiện mỹ, vĩnh cửu, là mẫu mực của mọi sự vật trong tự nhiên (ngoài hang)
- Thế giới tự nhiên, vật chất với những con rối, objects được các thần copy từ các idea (trong hang)
- Thế giới của các cái bóng của những con rối, là hình ảnh về những sự vật khách quan theo cảm nhận chủ quan của con người (trong hang)




Sơ đồ trong và ngoài cái hang của Platon (các bạn nhớ bấm vào hình để xem bản to hơn nhé)



Theo Platon, chỉ có thế giới lý tưởng, vĩnh hằng với các ideas của nó mới là chân, thiện và mỹ. Và cái đẹp của các idea mới là cái đẹp tuyệt đối. Muốn biết thế nào là thực sự đẹp thì chỉ có cách tháo xiềng xích, tự ra đó mà nhìn. Cái đẹp này tựa như cái đẹp mà Phật nói có thể chứng được trong trạng thái ngộ.

Tiếp theo là đến cái đẹp trong các bản copy, tức là đời F1. Các bản copy khác nhau có hàm chứa tỷ lệ giống idea mẫu khác nhau, vì thế cũng có độ đẹp xấu khác nhau. Bản nào càng giống idea vĩnh hằng thì càng đẹp. Cái đẹp này là đẹp tương đối theo nghĩa vô thường và không hoàn hảo, nhưng cũng có thể coi là một phần của cái đẹp thật, chứ không phải hoàn toàn tương đối kiểu chủ quan.

Cuối cùng là cái đẹp trong những cái bóng. Những cái bóng này là thế hệ F2 kể từ các idea. Sau hai lần biến dạng, về nguyên tắc chúng sẽ ngày một xa rời hình mẫu lý tưởng. Tuy nhiên, chúng vẫn giữ phần trăm nào đó nét của hình mẫu lý tưởng. Càng giống hình mẫu bao nhiêu, chúng sẽ càng đẹp bấy nhiêu.

Tóm lại, vẻ đẹp của thế giới vật chất và kể cả các ảo ảnh là vẻ đẹp có thật, khách quan, dophần trăm của idea nằm trong đó, chứ không phải cảm nhận chủ quan, tương đối của mỗi người. Tuy mỗi người sẽ cảm nhận về vẻ đẹp đó một cách khác nhau, dưới mức độ khác nhau, nhưng một vật hay hình ảnh đẹp sẽ tạo cảm giác ham thích cho mọi người. Mỗi người có thể nhìn con ngựa dưới góc độ khác nhưng đều nhận ra là ngựa, và khi công nhận là ngựa tức là thừa nhận nó có một số quy luật hình thức nhất định chứ không phải lung tung, có nghĩa là thừa nhận ở nó một vẻ đẹp phổ quát, cho dù ta có gọi đó là đẹp hay không.

Khái niệm và vai trò của nghệ thuật theo Platon

Nghệ thuật theo Platon là một trong những hoạt động có chủ đích của con người, có mục đích là thể hiện cái đẹp. Một sản phẩm nghệ thuật càng gần với idea lý tưởng thì càng đẹp. 
Có hai dạng chính để làm ra một tác phẩm nghệ thuật như vậy. Platon gọi là Poiesis (nghệ thuật sáng tạo) và mimesis (nghệ thuật sao chép tự nhiên). Hai loại nghệ thuật này là hai cách tiếp cận khác nhau tới cái đẹp trong vũ trụ quan Platon.

• Poiesis – Nghệ thuật dưới dạng mô hình thần khải, mô hình trực tiếp từ idea lý tưởng



Ẩn dụ Cái Hang của Plato – Jan Saenredam, 1604> (Các bạn nhớ bấm vào hình để xem chi tiết nhé): Những người tù chen chúc ngồi, dựa cả vào bức tường ngăn. Các bậc trí giả là những người tuy sống trong hang nhưng không bị xiềng, thấy được những gì đi qua cửa hang. Họ làm hình rối, đốt lửa cho bóng in trên vách để kể lại, minh họa cấu trúc sự thật cho những người bị xiềng xem.


Nghệ sỹ sáng tạo thực sự là những bậc trí giả. Họ cũng là người sống trong hang như những người khác nhưng không bị xiềng. Họ đi ra cửa động, quan sát được thế giới bên ngoài. Khi quay về, họ rất muốn tả lại cho những người bị xiềng xích kia thấy được là thế giới đó đẹp đẽ ra sao. Họ bèn bắt chước các vị thần, làm ra các con rối để truyền đạt.

Những tác phẩm của họ là mô hình về cái thực, được mô tả lại bởi những người được giác ngộ, đã nhìn thấy chân lý, nhằm giúp người ta hình dung ra thế giới lý tưởng đó. Lý luận của Phật Giáo, hay Kito, học thuyết của Socrates và Platon vẫn được coi là loại mô hình này. Bản thân chúng không phải sự thật, mà là lời kể về sự thật của người đã nhìn thấy nó.

Những con rối do các nghệ sỹ sáng tạo này làm ra có thể dưới dạng thi ca, dạng tranh, tượng, nhạc, kiến trúc hay một thứ gì đó. Đôi khi nhiều loại vật liệu khác nhau có thể được dùng để diễn đạt cùng một loại ý tưởng. (Một khi đã nhìn thấy idea mẫu, trí giả đó có thể làm hàng ngàn copy dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy theo vật liệu mà anh ta có và năng lực của anh ta để mô phỏng lại idea gốc.) Đặc biệt thi ca được coi là gần với sáng tạo thần khải nhất, vì thế cũng có cùng gốc từ với poiesis.

Bởi chúng là những copy trực tiếp từ thế giới lý tưởng nên về nguyên tắc có thể sánh ngang với những thực tại trong tự nhiên, và khi đó, bậc trí giả hay nghệ sỹ đó sánh ngang với các thần thánh.

Có thể gọi các tiếp cận nghệ thuật này là “cụ thể hóa một ý tưởng (idea) thành tác phẩm nghệ thuật”.


• Mimesis – Nghệ thuật dưới dạng mô hình tinh chế, đúc rút từ những cái bóng

Nghệ sỹ mimesis cũng là người sống trong hang và cũng bị xiềng như những người khác. Tuy không ra được cửa hang, anh ta nhận ra là trong các hình bóng cùng tên từng trôi qua trên vách hang thì có những cái đẹp hơn. Và anh ta nghiên cứu trong các hình bóng đó để đúc rút ra một cái gần với chuẩn mực nhất, đẹp nhất. Sản phẩm của anh ta không giống hoàn toàn bất kỳ một cái bóng nào từng có trên vách, mà hoàn hảo hơn tất cả bọn chúng, nó chứa những đặc điểm chung của cả họ bóng đổ đó.

Nếu anh ta vẽ hay tạc tượng một con ngựa, thì ai cũng biết đó là con ngựa, nhưng con ngựa này hoàn hảo hơn mọi con ngựa mắt thấy. Nó là mô hình gần với thực tế lý tưởng nhất, tỷ lệ đẹp do đó cao nhất. Nếu anh ta làm tượng vệ nữ, thì tượng này sẽ hội tụ đầy đủ những nét đẹp lý tưởng về phụ nữ mà không một người phụ nữ thật nào hội tụ nổi. Đó chính là lý do tại sao những tác phẩm nghệ thuật Hy Lạp có độ phổ quát và độ đẹp lý tưởng cao như chúng ta biết.

Như vậy, nghệ sỹ được gọi là mimesis cũng không sao chép tự nhiên một cách đơn thuần, mà anh ta khái quát hóa nó để thành một sản phẩm đậm đặc hơn, gần với chân, thiện, mỹ hơn. Kỹ thuật hay quy trình tạo tác của anh ta là quan sát một loạt hình ảnh cùng tên rồi bỏ đi những đặc điểm riêng, cụ thể của từng cái, tinh lọc ra cái chung, bản chất của cả họ. Chẳng hạn lấy ra cái “tính trắng” từ nhiều vật màu trắng, cái “tính ngựa” từ nhiều con ngựa. Cách tiếp cận này được coi là quá trình “trừu tượng hóa hay là khái quát hóa cái cụ thể để tạo thành cái chung mẫu mực”.

Cũng có thể nói sản phẩm của anh ta cũng là những con rối như của các bậc trí giả giác ngộ, nhưng là những con rối do đúc kết bóng đổ mà thành chứ không phải do nhìn thấy hình mẫu idea mà sao chép ra. Do xuất phát từ thế hệ bóng, tức là F2, ta có thể coi sản phẩm nhân tạo này là F3. Nhưng F3 này tinh chứa nhiều đặc điểm giống cụ tổ idea hơn cả đời F2. Nếu so với F1, thông thường F3 sẽ không được bằng, vì F1 là con đẻ, copy trực tiếp từ idea. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp ngẫu nhiên mà F3 có thể giống idea hơn cả một số cá thể đời F1, giống như chắt có thể giống cụ hơn là con giống bố.

• Nghệ thuật dưới dạng công án thiền

Theo Platon, nghệ thuật sẽ diễn ra theo 1 trong 2 cách trên. Tuy nhiên cũng phải nói thêm là Platon khinh thường nghệ thuật theo cả hai nghĩa nói trên. Thứ nhất là bởi vì mọi sản phẩm nghệ thuật, cho dù nó được mô phỏng trực tiếp từ idea lý tưởng, hay được đúc rút từ những hình bóng vô thường trên vách đá, thì nó vẫn chỉ như những con rối có thể rất giống thật nhưng không phải là thật. Có nghĩa là nghệ thuật chuyển tải được phần nào cái đẹp, nhưng không chuyển tải được tính chân và thiện của lý tưởng.

Ngoài ra, thế giới vĩnh hằng còn biết bao điều khác, vô vàn ideas khác không thể được mô phỏng hết. Vì thế, cách duy nhất cũng là mục đích duy nhất của mọi nỗ lực là phải ra được khỏi hang, chứ không phải là làm các mô hình đẹp hơn.

Điều nguy hiểm nhất của nghệ thuật chính lại vì những sản phẩm của nó là những mô hình quá nét, quá đẹp, khiến người ta mê say và an tâm với chúng, và từ đó mất đi cái mong muốn được giải thoát, được ra ngoài hang động, để nhìn thấy cái thực vô biên và vĩnh hằng ngoài cửa hang. Tương tự như nếu ta xem bộ phim thám hiểm thật hay về một vùng đất lạ thì rất có thể ta cho rằng hiểu biết như thế là đủ, khỏi cần trực tiếp đến vùng đất đó nữa. Những kẻ say mê sản phẩm nghệ thuật là những kẻ mông muội khó thuyết phục nhất về tình trạng ếch ngồi đáy giếng của họ và ít nhu cầu nhất về việc tìm tới cái chân thiện mỹ, vì sản phẩm nghệ thuật họ chiêm ngưỡng có những vẻ đẹp đã đủ thỏa mãn họ.

Từ nhận thức về mối nguy hại đó, Platon rất coi thường nghệ thuật. Quan điểm này của ông giống với quan điểm nhà Phật, cho rằng muốn đạt tới Niết bàn hay thiền thực thụ phải giải thoát khỏi “mọi” trụ chấp. Còn dính vào hình, vào lời, dù tinh tế đến đâu, đúng đắn đến đâu, vẫn là đang ở trên thuyền chứ chưa lên bờ. Và theo cách hiểu đó, những giải thích, minh họa gần đúng không những không có tác dụng, thậm chí còn có tác hại như thuốc phiện làm mê tâm.

Vì vậy, theo Platon, một nghệ thuật chân chính không phải là nỗ lực thể hiện gần đúng vẻ đẹp của một idea, mà là làm cách nào để thức tỉnh nhân loại là thế giới chân thiện mỹ còn ở ngoài cửa hang, và tất cả mọi thứ họ làm, họ thấy đều chỉ là những cái bóng của các con rối thôi. Cách hiểu nghệ thuật này tương tự như khái niệm về các công án trong thiền môn.

Bài 3 – Các khái niệm quan trọng của Platon: Idea, Form và Illusion 


SOI: Đây là bài 3, tiếp theo bài 1bài 2 của loạt bài về Platon (để cuối cùng đi tới câu trả lời “Trừu tượng là gì?“…


“Dụ ngôn Hang động của Platon” 1 của Beatrice Biewer

Trên đây đã nói sơ lược về dụ ngôn hang độngvũ trụ quan Platon, về khái niệm đẹp cũng như vai trò và phương pháp của nghệ thuật nhằm tạo ra, mô phỏng cái đẹp trong lý thuyết Platon. Tuy nhiên, mục đích của chúng ta không phải là ở chỗ trình bày lại quan điểm triết học và nghệ thuật của Platon, mà là tìm hiểu xem những khái niệm nghệ thuật nào trong những khái niệm đương đại đã có sự khởi xướng từ đó và chúng biến đổi thế nào để trở thành như ngày nay. Để làm được việc đó, ta không thể dừng lại được ở dạng mô tả dễ hiểu như trên, mà phải đi sâu hơn vào một số khái niệm chủ chốt. Có 3 khái niệm rất quan trọng trong học thuyết Platon cần được làm rõ là Idea, Form và Illusion. Phần trình bày này có thể trùng một số ý với phần trên, nhưng sẽ cơ bản hơn và sâu hơn.

a. Idea – ý tưởng

Chữ idea theo gốc indo-german có nghĩa là nhìn. Trong vũ trụ quan Platon, thì idea là những thực tại ở thế giới thứ nhất, ngoài cửa hang. Những idea này có tính phi vật chất nhưng tồn tại khách quan và vĩnh cửu. Chúng là những vật thể par excellence, nghĩa là không có sinh diệt, nhân quả.

Sau này, chữ Idea, hay ý tưởng, lại có thể được hiểu như là một kết quả tư duy chủ quan của mỗi người, một thứ nằm trong đầu, và sinh diệt do tư duy.

Tuy nhiên, khái niệm này cũng không hoàn toàn xa với Platon. Nó xuất phát từ quan điểm Platon là con người có khả năng hòa nhập về tinh thần vào thế giới lý tưởng. Khi tôi nói tôi có một ý tưởng, thì có nghĩa là một cái gì đó mới mẻ trong đầu, không phải mô tả từ thứ nhìn thấy thông thường. Một ý tưởng như vậy có thể đến từ thế giới lý tưởng và đã nhập vào đầu tôi theo con đường nào đó.

b. Form – tượng Form cụ thể

Chữ Form có nghĩa gốc từ trước Platon là hình ảnh, hình thức, tức là phần nhìn thấy được của một sự vật ngoài tự nhiên. Theo nghĩa này, form đồng nghĩa với shape, shine, appearance. Khái niệm này được đưa ra để phân biệt với phần substance, tức là phần chất của cùng sự vật đó. (Khái niệm triết học về phân biệt giữa hình và chất được gọi là Hylomorph).

Trước Platon, người ta cho rằng bản chất của mọi sự vật ngoài tự nhiên là tính thay đổi (Heraclit), và nguyên do của sự thay đổi đó là sự biến đổi của chất (Thales). Hình thức chẳng qua là một thuộc tính của chất, và sẽ thay đổi cùng với chất. Và người ta tập trung vào nghiên cứu xem cái chất này thực ra là cái gì. Ta có khái niệm “Form of something”. Nói chung, đặc điểm của chất là tính cụ thể, vì nó không thể vừa là cái này, vừa là cái khác, mà chỉ có thể là chính nó mà thôi. Vì vậy, cái form của chất này còn được gọi là form cụ thể.


“Dụ ngôn hang động của Platon” 1 của Beatrice Biewer

Form mô thức

Platon lại nhấn mạnh vào sự giống nhau của nhiều vật thể cùng họ, thể hiện qua tính bất biến của tên gọi. Chẳng hạn con ngựa gỗ, ngựa giấy, ngựa bạch, ngựa Mông Cổ v.v… rất khác nhau về vật liệu, kích thước v.v… nhưng vẫn có chung một tên gọi là ngựa. Ta có thể vẽ vô số hình tam giác khác nhau, nhưng khái niệm hình tam giác thì không đổi. Vậy bản thể của một sự vật theo ông không phải là phần chất tạo nên nó, cũng không phải cái hình thức cụ thể gắn liền với chất đó, mà là một hình mẫu chung, hình thức chung có chứa đựng trong cả họ những vật thể cùng tên. Khái niệm form này của Platon là “form in something”.

Trong Dụ ngôn Hang động, Platon đã giải thích cơ chế của việc hình thành những họ object cùng tên như “ngựa”, “bàn” là vì rất nhiều búp bê, con rối có thể được làm từ khuôn mẫu là một idea lý tưởng. Vì công năng làm mẫu đó nên Platon cũng gọi các Idea là Form, theo nghĩa là mô thức, công thức hay hình mẫu . Như vậy, Idea và Form trong Platon có thể được hiểu là một thứ. Học thuyết Platon do đó có khi được gọi là thuyết Idea, có khi gọi là thuyết về Form.

Sở dĩ Platon dùng cả chữ Form và chữ Idea cho cùng một thứ là để nhấn mạnh mấy khía cạnh khác nhau. Idea nhấn mạnh khía cạnh phi vật thể, lý tưởng, tiên nghiệm (transcendental) của các hình mẫu này. Chữ Form thì nói lên quan hệ mật thiết của các Idea đến hình thức, hình ảnh của sự vật, là thứ có thể kiểm chứng hậu nghiệm (empirical). Nó nhấn mạnh Form này là mô thức của các form cụ thể.

Nghĩa chữ form là công thức hay mô thức là đặc trưng của Platon, nhưng vẫn được dùng cho tới nay, để chỉ các loại mẫu, mô thức, với các biến thể như formal, formular v.v.

Song song với khái niệm này, Platon vẫn giữ chữ form thông dụng, chỉ phần hình thức cụ thể của các object trong tự nhiên. Chữ form trong trường hợp này có nghĩa mimic, như Mô hình, nhằm diễn đạt một ý tưởng. Cũng có thể coi đó là sự hiện hình của một hình mẫu vốn là ý tưởng vô hình.

Tóm lại, trong thuyết Platon, chữ Form có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa Mô thức, cùng với khái niệm idea, để chỉ hình thức chung cho cả một họ sự vật cùng tên; Và nghĩa Mô hình, cùng với khái niệm hình thức, hình ảnh, để chỉ sự hiện diện cụ thể trong một sự vật tự nhiên. Cả hai nghĩa này đều được dùng cho tới nay, vì thế rất hay bị nhầm lẫn. Để phân biệt hai loại form này, khi nói đến Platon, người ta sẽ dùng chữ Form viết hoa nếu chỉ cái Form mô thức, tổng quát và dùng chữ form nhỏ để chỉ các form mô hình, cụ thể.

c. Illusion – ảo ảnh

Theo Platon thì tất cả những gì chúng ta cảm nhận được, mắt thấy tai nghe, đều là các ảo ảnh về thế giới mô hình vật chất.

Tuy nhiên, nói là ảo nhưng chúng cũng vẫn còn dính tới thực chứ chưa phải ảo hoàn toàn, vì chúng là cái bóng của các objects hay sự vật trong cảm nhận của chúng ta. Vì thế nên sau này, nhất là theo trường phái duy vật thì những ảnh này được coi là ảnh thật. Còn có loại ảo ảnh hoàn toàn do hoang tưởng, tức là không có cái gốc từ vật thực, chẳng hạn hoa mắt, hay ảo ảnh sa mạc, thì mới được gọi là ảo ảnh hay illusion. Theo nghĩa đó, thậm chí toàn bộ hình dung về thế giới lý tưởng của Platon có thể được coi như một dạng hoang tưởng, illusion.

Tóm lại, những người có gốc gác tín ngưỡng Platon hay Phật giáo sẽ luôn có xu hướng coi những thứ mắt thấy là ảo ảnh, illusion, còn những cái trực giác, ngộ được, hay siêu hình mới là thực. Ngược lại những người theo duy vật sau này sẽ có quan điểm coi những thứ mắt thấy là thực, (tuy không phải thực hoàn toàn nhưng ít ra là một phần sự thực), còn những thứ do thăng hoa tinh thần mà hình dung ra thì là ảo ảnh, là illusion. Vì thế, khi dùng từ này, rất thường gặp hai cách hiểu hoàn toàn trái ngược nhau.

Không có nhận xét nào: